Tiếp tục khẳng định ngôi vị cường quốc xuất khẩu điều
Tiếp tục khẳng định ngôi vị cường quốc xuất khẩu điều
Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam dẫn số liệu của Tổng cục Hải quan cho biết, năm 2021 lượng viên nén xuất khẩu từ Việt Nam đạt 3,5 triệu tấn với kim ngạch hơn 413 triệu USD. Trong 6 tháng đầu 2022 lượng xuất khẩu đạt gần 2,4 triệu tấn với kim ngạch 354 triệu USD. Nếu tốc độ tăng trưởng được duy trì như hiện nay, kim ngạch xuất khẩu trong cả năm 2022 có thể đạt trên dưới 700 triệu USD. Trong tương lai, viên nén có tiềm năng sẽ lọt vào nhóm các mặt hàng nông lâm sản xuất khẩu có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Trong 6 tháng đầu năm 2022, Việt Nam đã xuất khẩu lượng viên nén tương đương 67,33% tổng lượng viên nén xuất khẩu trong năm 2021, đạt giá trị hơn 85% kim ngạch của năm 2021
Phân tích về vấn đề này, ông Tô Xuân Phúc - chuyên gia phân tích chính sách Tổ chức Forest Trends - đánh giá, lượng và giá trị xuất khẩu viên nén của Việt Nam chỉ thực sự tăng ổn định từ tháng 10/2021. Các tháng nửa đầu năm 2022 (trừ tháng 2/2022 trùng với Tết Nguyên đán tại châu Á) ghi nhận sự tăng vọt cả về lượng và giá trị xuất khẩu.
Riêng trong tháng 4/2022, kim ngạch xuất khẩu viên nén của Việt Nam đã đạt hơn 530 ngàn tấn, trị giá hơn 80 triệu USD, tương đương hơn 15% lượng xuất khẩu của năm 2021. Các tháng khác đều có lượng xuất khẩu bình quân trên 300.000 tấn.
Đáng chú ý, hiện giá xuất khẩu viên nén cũng đã tăng rất mạnh, vọt lên bình quân gần 150 USD/tấn, tương đương tăng hơn 27% so với mức giá bình quân năm 2021.
Lượng và giá viên nén xuất khẩu tăng mạnh trong thời gian vừa qua chủ yếu là do nhu cầu sử dụng viên nén tại các nước EU tăng đột biến. Nguyên nhân là do các nước EU quay lưng lại với nguồn khí đốt từ Nga khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra trước đó được nhập khẩu để phục vụ nhu cầu sưởi ấm.
Viên nén nhập khẩu đang được sử dụng để thay thế cho nguồn cung khí đốt đã mất đi này. Cầu và giá viên nén tại thị trường EU tăng cao, tạo ra sức hút từ các nguồn cung lớn đặc biệt là từ Mỹ - quốc gia xuất khẩu viên nén lớn nhất trên thế giới. Mặc dù Việt Nam không phải là quốc gia cung viên nén lớn cho các nước EU, cầu và giá viên nén tại thị trường quốc tế tăng cao tạo cơ hội cho ngành viên nén Việt Nam mở rộng sản xuất và xuất khẩu.
Nhận định về thị trường xuất khẩu viên nén của Việt Nam, theo đánh giá của các chuyên gia, gần 100% lượng viên nén của Việt Nam được xuất khẩu sang Nhật Bản và Hàn Quốc. Lượng xuất sang các thị trường còn lại không đáng kể. Trước năm 2018, tỷ trọng viên nén của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc lớn hơn nhiều so với Nhật Bản. Tuy nhiên sự chênh lệch được thu hẹp dần sau đó.
Cụ thể, lượng nhập khẩu của thị trường Nhật Bản chỉ bắt đầu tăng mạnh từ năm 2018. Đây cũng là thời điểm nhu cầu nhập khẩu của cả hai thị trường này tăng đột biến (Nhật Bản tăng gấp 3 lần, Hàn Quốc tăng hơn 1,5 lần) do các chính sách ưu đãi về giá mua điện sinh khối mà viên nén gỗ là một nguồn nhiên liệu quan trọng nhằm chuyển đổi từ nguồn điện sử dụng điện than sang điện sạch.
Thị trường Nhật vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng rất cao ở mức trung bình trên 90% ở giai đoạn tiếp theo (2019-2021). Trong năm 2022, dự kiến Nhật sẽ tiếp tục gia tăng lượng nhập khẩu viên nén từ Việt Nam lên mức xấp xỉ với Hàn Quốc.
Trong khi đó, theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu tăng nhanh kể từ 2021. Trong 6 tháng đầu 2022 số lượng doanh nghiệp xuất khẩu tăng mạnh. Số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu tăng nhanh cho thấy tính hấp dẫn của ngành hàng này trong thời gian vừa qua.
Nhu cầu về mặt hàng viên nén trên thế giới đang tăng, đặc biệt tại thị trường EU. Ngành viên nén của Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn trong việc mở rộng sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên, ông Tô Xuân Phúc đánh giá, hiện còn một số yếu tố có tác động trực tiếp đến tính bền vững của ngành. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành và các cơ chế chính sách hiện hành cần có sự điều chỉnh trong tương lai.
Cụ thể, nguồn nguyên liệu gỗ đầu vào có vai trò quan trọng nhất đối với sự lớn mạnh của ngành. Nguồn nguyên liệu hiện tại của ngành chủ yếu là các phế phụ phẩm từ các cơ sở chế biến gỗ. Tuy nhiên, nguồn gỗ nguyên liệu đầu đang phải cạnh tranh khốc liệt với nguyên liệu của ngành dăm.
Theo chia sẻ từ một số doanh nghiệp, hiện chi phí sản xuất viên nén cao hơn khoảng 30 USD/tấn so với chi phí sản xuất dăm, tuy nhiên giá viên nén xuất khẩu lại thấp hơn khoảng 30 USD/tấn so với giá dăm xuất khẩu. Dăm hút nguyên liệu, đẩy giá nguyên liệu lên rất cao trong thời gian vừa qua.
Nhiều doanh nghiệp viên nén đặc biệt là các doanh nghiệp có các hợp đồng xuất khẩu đã ký kết từ trước và không có khả năng thay đổi giá xuất khẩu không cạnh tranh được với các doanh nghiệp dăm về nguyên liệu. Điều này dẫn tới một số doanh nghiệp viên nén phải hạn chế sản xuất.
Trong bối cảnh thiếu nguyên liệu đầu vào, mở rộng mạng lưới thu mua nguyên liệu là giải pháp ngắn hạn của doanh nghiệp nhằm duy trì các hoạt động sản xuất, đáp ứng với các đơn hàng đã ký kết từ trước. Tuy nhiên, điều này tiềm ẩn một số rủi ro trong việc kiểm soát chuỗi cung, bao gồm cả việc kiểm soát rủi ro của nguồn nguyên liệu đầu vào có liên quan tới các hoạt động gây tổn hại tới rừng tự nhiên.
Bên cạnh đó, thời gian vừa qua Chính phủ Việt Nam có những động thái xem xét về việc áp dụng thuế xuất khẩu viên nén (hiện đang ở mức 0%). Các yếu tố này đang tác động trực tiếp tới thực trạng sản xuất và kinh doanh của các bên tham gia chuỗi cung viên nén hiện nay.
Xu hướng tiêu thụ viên nén tại các thị trường lớn trên thế giới cho thấy trong tương lai các thị trường này sẽ đòi hỏi nguồn viên nén sử dụng gỗ nguyên liệu đầu vào có chứng chỉ bền vững. Ông Tô Xuân Phúc khuyến nghị, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nắm bắt thông tin thị trường và chuẩn bị cho việc đáp ứng các đòi hỏi này của thị trường trong tương lai.
Hiện Chính phủ Việt Nam đang khuyến khích việc mở rộng các diện tích rừng trồng và các diện tích đạt chứng chỉ quản lý rừng bền vững. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp có sử dụng gỗ rừng trồng làm nguồn nguyên liệu gỗ đầu vào, bao gồm cả các doanh nghiệp viên nén, trong việc hình thành liên doanh liên kết tạo nguồn gỗ nguyên liệu.
Hiện nay, người tiêu dùng ngày càng khắt khe trong lựa chọn sản phẩm an toàn, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Do đó, nhiều cơ sở sản xuất, hợp tác xã chè trên địa bàn nhiều tỉnh đã chuyển hướng sản xuất sản phẩm chè theo hướng an toàn hữu cơ. Đây là một trong những giải pháp nhằm bảo vệ sức khỏe người sản xuất, người tiêu dùng, góp phần quan trọng nâng cao thu nhập và hướng tới một nền nông nghiệp xanh, phát triển bền vững.
Sử dụng phân chuồng ủ hoại mục, phân hữu cơ vi sinh thay cho phân bón vô cơ; trồng cây che bóng để hạn chế sâu bệnh, đó chỉ là 2 trong số rất nhiều những thay đổi trong quy trình trồng và chăm sóc chè của gia đình anh Nguyễn Duy Hưng ở xã Phúc Xuân, thành phố Thái Nguyên. Với quy trình này, đã giúp chè của gia đình anh tiêu thụ dễ dàng, với giá bán cao. Anh Nguyễn Duy Hưng chia sẻ: “8 năm rồi, chè phát triển rất khỏe, đồng đều, vẫn phải duy trì theo định hướng hữu cơ, nói không với thuốc hóa học”.
Trước những yêu cầu khắt khe của thị trường, Hợp tác xã chè La Bằng, huyện Đại Từ đã chuyển đổi sang sản xuất theo hướng hữu cơ. Ban đầu, các thành viên trong Hợp tác xã khá bỡ ngỡ khi chuyển đổi sang hướng sản xuất mới, không chỉ mất nhiều công và thời gian chăm sóc. Những năm đầu, sản lượng chè sụt giảm do phải đảm bảo việc không phun thuốc bảo vệ thực vật hóa học trong phòng, trừ sâu bệnh. Tuy nhiên, nhờ kiên trì thực hiện mà giờ đây các thành viên đã nhận rõ những kết quả cũng như lợi ích của hướng sản xuất hữu cơ mang lại.
Với lối sống xanh của người tiêu dùng và nhu cầu thị trường thì việc chuyển đổi sang nền nông nghiệp an toàn, không hóa chất là hướng đi tất yếu. Và những mô hình sản xuất chè hữu cơ đã nhân rộng sang các địa phương trồng chè khác: Phú Thọ, Nghệ An, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La…
Một điểm nữa là khai thác, phục hồi lại các cánh rừng chè shan tuyết cổ thụ trên núi cao, chủ yếu tập trung ở Hà Giang, Sơn La, Yên Bái, Lào Cai… cũng bước đầu được chú ý triển khai. Đây là nguồn tài nguyên quý, hiếm, được mệnh danh là “vàng xanh”, không chỉ góp phần vào bảo tồn nguồn gen quý, mà còn nâng cao giá trị, tăng thu nhập cho người dân đồng thời cũng là cơ hội quý để quảng bá thương hiệu chè shan tuyết cổ thụ của Việt Nam đến với đông đảo người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Tiên Thiên Trà là một trong những công ty đang mỗi ngày nỗ lực bảo tồn và phát triển giống chè quý hiếm trên đỉnh núi Tả Thàng, Mường Khương, Lào Cai với những hoạt động thiết thực hỗ trợ người dân bản địa bảo tồn và phát triển cây chè, đảm bảo sinh kế và môi trường bền vững.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu hạt điều của Việt Nam trong tháng 8 đạt 341.628 tấn với trị giá hơn 351 triệu USD, giảm 6% về lượng và giảm 10,4% về trị giá so với tháng trước đó. Tính chung trong 8 tháng đầu năm, Việt Nam đã chi hơn 2,46 tỷ USD để nhập khẩu hơn 2 triệu tấn hạt điều, tăng mạnh 35,4% về lượng và tăng 12,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Giá xuất khẩu ghi nhận giảm mạnh so với cùng kỳ với 1196 USD/tấn, giảm 17% so với cùng kỳ năm 2022.
Hạt điều là mặt hàng Việt Nam đứng đầu thế giới về xuất khẩu, đồng thời đang ghi nhận nhập khẩu từ một quốc gia châu Phi tăng vọt trong 8 tháng đầu năm. Cụ thể, tháng 8/2023, nhập khẩu hạt điều từ Nigeria đạt 40.033 tấn, tăng 110% về lượng và tăng 58% về trị giá so với tháng 8/2022, đồng thời đánh dấu tháng thứ 4 liên tiếp sản lượng nhập khẩu đạt trên 40.000 tấn - mức cao kỷ lục.
Tính chung trong 8 tháng đầu năm, nhập khẩu loại nông sản này từ Nigeria đạt 207.840 tấn với trị giá hơn 221 triệu USD, tăng 133% về lượng và tăng 90,6% so với cùng kỳ năm 2022. Quốc gia châu Phi này là nhà cung cấp hạt điều lớn thứ 4 của Việt Nam với sản lượng chiếm 10% trong cơ cấu nhập khẩu hạt điều của Việt Nam.
Đáng chú ý, sản lượng nhập khẩu trong 8 tháng đầu năm 2023 từ Nigeria gần gấp đôi so với sản lượng của cả năm 2022 cộng lại (123.033 tấn). Giá xuất khẩu cũng giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2022, đạt 1.072 USD/tấn, giảm mạnh 18% so với cùng kỳ năm 2022.
Hiện nay, diện tích trồng điều của Việt Nam chỉ khoảng 300.000 ha, cung cấp khoảng 30% nguyên liệu cho nhu cầu chế biến của các doanh nghiệp, do đó Việt Nam vẫn tăng cường nhập khẩu điều để phục vụ cho hoạt động xuất khẩu với hơn 2,6 tỷ USD cho hoạt động nhập khẩu trong năm 2022.
Ở chiều ngược lại, trong năm 2022, với hơn 3 tỷ USD thu về, ngành điều Việt Nam vẫn giữ vị trí số 1 thế giới về công nghệ và sản lượng điều nhân xuất khẩu, chiếm khoảng 80% thương mại điều nhân toàn cầu. Các thị trường xuất khẩu hạt điều chính của Việt Nam là Mỹ, châu Âu, Trung Quốc…
Theo thống kê, hạt điều nhân của Việt Nam đã có mặt ở 90 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm. Năm 2006, với kim ngạch đạt 520 triệu USD, Việt Nam chính thức là quốc gia xuất khẩu điều số 1 thế giới. Đến năm 2010, mặt hàng này lần đầu tiên giúp nước ta thu về 1 tỷ USD, đồng thời lọt vào "câu lạc bộ tỷ USD" của ngành nông nghiệp.
Theo Vinacas, xuất khẩu hạt điều trong năm 2023 giảm cả về lượng lẫn giá trị là do tình trạng lạm phát cao trên toàn cầu, khiến cho giá cả sinh hoạt trở nên đắt đỏ hơn, mức chi tiêu cho các nhu cầu tất yếu tăng cao hơn rõ rệt, dẫn đến việc tiêu thụ hạt điều và các thực phẩm không thiết yếu khác bị ảnh hưởng nặng nề.