Thị trấn công nghiệp Phú Minh (Phú Xuyên, TP. Hà Nội) là vùng đất cổ có bề dày văn hóa lịch sử lâu đời, xưa là làng Nho Tống có từ thời Tiền Lê (980-1009) thuộc xã Do Lễ, tổng Vạn Điểm, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội.
Thị trấn công nghiệp Phú Minh (Phú Xuyên, TP. Hà Nội) là vùng đất cổ có bề dày văn hóa lịch sử lâu đời, xưa là làng Nho Tống có từ thời Tiền Lê (980-1009) thuộc xã Do Lễ, tổng Vạn Điểm, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội.
Giới chuyên gia đã chỉ ra một loạt lý do khiến tiền lương ở Nhật Bản trì trệ trong từng ấy năm. Thứ nhất, trong suốt một thời gian dài, Nhật phải xoay sở với tình trạng thái ngược với lạm phát hiện nay, tức là giảm phát. Tình trạng giá cả giảm đã bắt đầu vào giữa thập niên 1990 do đồng Yên mạnh – nhân tố đẩy giá hàng hoá nhập khẩu xuống – và vụ nổ bong bóng tài sản trong nước.
“Về cơ bản, giá tiêu dùng ở Nhật Bản không thay đổi suốt 20 năm qua”, chuyên gia kinh tế cao cấp Muge Adalet McGowan của OECD tại Nhật Bản nói. Bà McGowan cho rằng cho tới hiện nay, ví tiền của người tiêu dùng Nhật Bản vẫn chưa bị ảnh hưởng nhiều và họ cũng chưa cảm thấy sự cần thiết phải được tăng lương.
Nhưng khi lạm phát tăng, người lao động có thể bắt đầu đưa ra những lời phàn nàn mạnh mẽ về việc không được tăng lương – giáo sư Shintaro Yamguchi của Đại học Tokyo nhận định.
Giới chuyên gia còn chỉ ra một lý do khác khiến tiền lương ở Nhật không tăng trong suốt mấy thập kỷ, và đó là tốc độ tăng năng suất của nước này.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân mỗi lao động nước này tạo ra trong 1 giờ đồng hồ thấp hơn so với mức bình quân của các nước trong OECD, và đây “có lẽ nguyên nhân lớn nhất” khiến tiền lương ở Nhật đi ngang – theo ông Yamaguchi.
“Nói chung, tăng trưởng tiền lương và tăng trưởng năng suất lao động đi liền lớn nhau. Khi năng suất tăng trưởng, doanh nghiệp làm ăn tốt hơn, và khi đó, họ có thể tăng lương”, bà McGowan nhất trí với quan điểm trên. Bà cũng nói rằng dân số lão hoá của Nhật Bản là một vấn đề nữa, vì lực lượng lao động già thường có khuynh hướng đồng nghĩa với năng suất lao động và tiền lương đều thấp hơn. Chưa kể, cách làm việc của mọi người cũng đang thay đổi.
Năm 2021, gần 40% lực lượng lao động của Nhật Bản làm công việc bán thời gian hoặc làm việc ngoài giờ hành chính, tăng từ mức 20% vào thập niên 1990 – bà McGowan nhấn mạnh. “Khi tỷ trọng của những người lao động không chính thức này tăng lên, dĩ nhiên là tiền lương bình quân cũng giữ ở mức thấp, vì họ tạo ra ít sản phẩm và dịch vụ hơn”, bà nói.
Các chuyên gia kinh tế cũng nói rằng văn hoá làm việc đặc biệt của Nhật Bản là một yếu tố khác đóng góp vào sự trì trệ của tiền lương ở nước này. Nhiều người Nhật làm việc trong hệ thống “công việc trọn đời” truyền thống, mà ở đó các công ty thường tìm mọi cách để giữ người lao động làm việc cả đời cho họ - ông Angrick nói. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp thường rất thận trọng với việc tăng lương khi công việc thuận lợi, vì họ còn phải bảo vệ người lao động vào những lúc sản xuất – kinh doanh gặp khó.
“Doanh nghiệp không muốn sa thải. Vì thế, họ phải có sẵn dự trữ để có thể giữ công ăn việc làm cho người lao động khi xảy ra khủng hoảng”, vị chuyên gia nhấn mạnh.
Ngoài ra, trong hệ thống tiền lương dựa vào thâm niên, nơi người lao động được trả theo chức vụ và thời gian công tác thay vì năng lực, người lao động càng có ít lý do để nhảy việc. Ở các quốc gia khác, mối lo giữ chân người lao động muốn nhảy việc là một nhân tố quan trọng đẩy tiền lương tăng, theo ông McGowan.
“Vấn đền lớn nhất trên thị trường lao động Nhật Bản là thói quen dai dẳng của các doanh nghiệp trả lương dựa trên thâm niên”, chiến lược gia nổi tiếng về thị trường Nhật Bản Jesper Koll từng nói với CNN. “Nếu một hệ thống trả lương dựa trên năng lực thực sự được áp dụng, nhảy việc và thăng tiến trong sự nghiệp sẽ diễn ra phổ biến hơn”.
Tháng 1 vừa qua, Thủ tướng Kishida cảnh báo nền kinh tế đang đối mặt rủi ro, rằng Nhật Bản có nguy cơ rơi vào tình trạng “stagflation” (tăng trưởng trì trệ kèm lạm phát cao” nếu tiếp tục chậm chân so với lạm phát. Một mục tiêu chủ chốt của chính quyền ông Kishida hiện nay là tăng lương từ 3% trở lên mỗi năm. Giờ đây, nhà lãnh đạo muốn có thêm một bước tiến xa hơn, với kế hoạch tạo ra một hệ thống có độ chính thức hoá cao hơn.
Khi được hỏi về chi tiết của kế hoạch nói trên, một người phát ngôn của Chính phủ Nhật Bản nói rằng “các biện pháp kinh tế toàn diện mới sẽ bao gồm tăng cường hỗ trợ cho việc tăng lương, kết hợp với cải thiện năng suất lao động”. Theo dự kiến, các hướng dẫn cụ thể sẽ được đưa ra trước tháng 6 năm nay.
Trong khi đó, tổ chức công đoàn lớn nhất Nhật Bản là Liên nghiệp đoàn Nhật Bản (Rengo) đang cân nhắc đòi tăng lương 5% trong năm nay sau khi đàm phán với lãnh đạo một số công ty. Cuộc đàm phán thường niên đã khởi động trong tháng 2 này. Trong một tuyên bố, Rengo cho biết đang thúc đẩy vấn đề đòi tăng lương vì người lao động Nhật Bản đang có mức lương tăng yếu so với thế giới và cần được tăng lương để thích nghi với vật giá leo thang.
Một số công ty Nhật đã hành động. Fast Retailing, công ty sở hữu các thương hiệu thời trang Uniqlo và Theory, tháng trước tuyên bố sẽ tăng lương tới 40% ở Nhật Bản. Uniqlo thừa nhận tiền lương “còn thấp” ở nước này trong những năm gần đây. Trao đổi với CNN, một phát ngôn viên của CNN nói lạm phát là một vấn đề, nhưng công ty vẫn muốn “đáp ứng các tiêu chuẩn toàn cầu để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh”.
Theo một cuộc khảo sát do hãng tin Reuters thực hiện vào tháng trước, hơn một nửa số doanh nghiệp lớn ở Nhật Bản có kế hoạch tăng lương trong năm nay.
Suntory, một trong những hãng sản xuất đồ uống lớn nhất Nhật Bản là một trong số đó. CEO Takeshi Niinami của Suntory đang cân nhắc tăng lương 6% cho toàn bộ lực lượng lao động của công ty tại Nhật, xấp xỉ khoảng 7.000 người – theo một đại diện của công ty.
Tin này có thể sẽ thúc giục các doanh nghiệp khác hành động theo. “Nếu một số công ty thuộc hàng lớn nhất Nhật Bản tăng lương, nhiều công ty khác sẽ hành động tương tự” để duy trì cạnh tranh – ông Yamaguchi nói. “Nhiều công ty thường nhìn vào việc công ty khác làm gì”.
Ông Tokiyoshi thuộc về một thế hệ người lao động ở Nhật Bản gần như không được tăng lương trong suốt cuộc đời làm việc của họ. Giờ đây, khi giá cả ở Nhật tăng sau nhiều thập kỷ giảm phát, nền kinh tế lớn thứ ba thế giới buộc phải “thức tỉnh” trước một vấn đề lớn mà mức sống suy giảm và các công ty của nước này đối mặt với sức ép chính trị gia tăng đòi hỏi phải trả cao hơn cho người lao động.
Theo CNN, Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida đang hối thúc doanh nghiệp nước này giúp người lao động chống chọi với chi phí sinh hoạt ngày càng cao. Tháng trước, ông kêu gọi các công ty tăng lương với tốc độ nhanh hơn lạm phát, và một số doanh nghiệp đã hưởng ứng.
Cũng như ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, lạm phát đã trở thành một vấn đề gây “đau đầu” ở Nhật. Trong năm ngoái, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) lõi của nước này tăng 4%. Mức tăng này vẫn thấp so với lạm phát ở Mỹ hay châu Âu, nhưng là con số lạm phát cao nhất 41 năm ở Nhật - quốc gia mà người dân quen hơn với việc giá cả đi xuống.
“Ở một đất nước hầu như không có tăng trưởng tiền lương danh nghĩa trong hơn 30 năm, tiền lương thực tế đang giảm tương đối nhanh do lạm phát”, nhà kinh tế cấp cao Stefan Angrick của Moody’s Analytics tại Tokyo nhận định.
Tháng 1 vừa qua, Nhật Bản ghi nhận cú giảm thu nhập mạnh chưa từng thấy trong gần 1 thập kỷ nếu yếu tố lạm phát được tính đến.
Năm 2021, tiền lương bình quân hàng năm ở Nhật là 39.711 USD, so với mức 37.866 USD vào năm 1991 – theo dữ liệu từ Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Điều này có nghĩa là trong suốt 30 năm, tiền lương của người lao động ở Nhật tăng chưa đầy 5%, so với mức tăng 34% tại các nước khác trong nhóm 7 nền công nghiệp phát triển (G7) như Pháp và Đức trong cùng khoảng thời gian.